Chủ trì hội thảo gồm: PGS-TS Nguyễn Hồng Quân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển kinh tế tuần hoàn, Đại học Quốc gia TPHCM; ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TPHCM (HUBA); nhà báo Phạm Văn Trường, Phó Tổng Biên tập Báo SGGP. Hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến ở nhiều điểm cầu trên cả nước.
Từ điểm cầu Hà Nội có các đại biểu: ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN-PTNT; bà Lê Việt Nga, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công thương; ông Phạm Minh Tuân, Trưởng phòng nghiệp vụ 3, Cục Nghiệp vụ Quản lý thị trường, Tổng cục Quản lý thị trường.
Tại điểm cầu TPHCM và các tỉnh thành có các đại biểu: ông Đào Minh Chánh, Phó Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư TPHCM (ITPC); Nguyễn Anh Đức, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, Tổng Giám đốc Liên hiệp Hợp tác xã thương mại TPHCM (Saigon Co.op); lãnh đạo sở ngành các tỉnh Cà Mau, Long An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Đồng Nai.
Đại diện đơn vị đồng hành có: ông Lê Duy Cường, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần mỹ phẩm Sài Gòn; ông Vương Ngọc Dũng, Giám đốc Marketting Công ty Cổ phần mỹ phẩm Sài Gòn.
Không thể đi một mình khi vào các thị trường lớn và khó tính
Chia sẻ tại hội thảo, ông Vương Ngọc Dũng, Giám đốc Marketting Công ty Cổ phần mỹ phẩm Sài Gòn (SCC), cho biết, qua 50 năm thăng trầm, SCC vẫn giữ được bản sắc riêng.
Theo ông Dũng, SCC rất quan tâm và tập trung chất lượng sản phẩm. Nếu không đủ chất lượng thì không thể tồn tại và phát triển lâu dài, vì mỗi thời kỳ, giai đoạn, hình thức phân phối, bán lẻ có nhiều hình thức khác nhau.
Vài chục năm trước, các cửa hàng tạp hóa là kênh phân phối chính. Nhưng hiện nay có rất nhiều chuỗi kinh doanh, thương mại điện tử ngày càng có nhiều phương pháp tiếp cận chính xác hiệu quả hơn.
SCC cũng không nằm ngoài xu thế này. SCC có thương hiệu nước hoa Miss Sài Gòn là sản phẩm mang yếu tố rất Việt Nam, từ bao bì áo dài nón lá, hay thương hiệu dầu gội Fresh phát triển hơn 30 năm qua. SCC đã liên tục đổi mới để phát triển đến ngày hôm nay.
Trong đó, SCC đưa vào nhiều thành phần nguyên liệu của Việt Nam, như dầu gội Fresh mới ra mắt dòng sản phẩm có hơn 20 nguyên liệu nguồn gốc thiên nhiên, phần lớn là nguyên liệu đặc trưng của Việt Nam như bồ kết, gừng, bưởi…
Để đáp ứng được các tiêu chuẩn của thị trường quốc tế, hướng đi của SCC là sâu sát cùng các đối tác nước ngoài ngay từ đầu, để sản phẩm khi xuất khẩu sẽ đáp ứng được ngay các tiêu chuẩn.
Ông Vương Ngọc Dũng cũng chia sẻ thêm định hướng của SCC. Đơn vị hiện đang xâm nhập vào các thị trường khó tính như Nhật Bản và đang nghiên cứu thị trường Ấn Độ.
“Chúng tôi không thể đi một mình khi vào các thị trường lớn và khó tính. Cần có những đối tác để tạo nên sức mạnh lớn hơn. Doanh nghiệp chúng tôi cần sự hỗ trợ rất lớn từ các cơ quan Chính phủ, cũng như các chính sách hỗ trợ cho các thương hiệu Việt chinh phục thị trường nước ngoài”, đại diện SCC nói.
PGS-TS Nguyễn Hồng Quân: "Tương lai là xanh hoặc không có tương lai!"
PGS-TS Nguyễn Hồng Quân, Viện trưởng Viện nghiên cứu và Phát triển Kinh tế tuần hoàn, Đại học Quốc gia TPHCM khẳng định: Kinh tế tuần hoàn chính là tương lai của nền kinh tế toàn cầu. Tương lai là tuần hoàn, tương lai là xanh hoặc không có tương lai. Các nội dung cụ thể của nền kinh tế tuần hoàn có thương mại xanh, tiêu dùng xanh, thương hiệu xanh…
PGS-TS Nguyễn Hồng Quân phát biểu tại hội thảo. Ảnh: HOÀNG HÙNG
Báo cáo của Grand View Research Group 2022, quy mô thị trường công nghệ xanh và bền vững toàn cầu được định giá 13,28 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 22,4% từ năm 2022 đến năm 2030.
Đối với nước ta, có các đề án, chương trình hành động quốc gia, tham gia các hiệp định thương mại tự do… vào nền kinh tế xanh toàn cầu; tuy vậy, ta đang gặp nhiều thách thức, liên quan đến nguồn nhân lực, biến đổi khí hậu, nguyên vật liệu, điện… Các nghiên cứu gần đây của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho thấy yêu cầu về thương mại xanh đang cấp thiết, rõ ràng; xu hướng tiêu dùng xanh rất quan trọng, các khách hàng ngày càng quan tâm về vấn đề này…
Khảo sát của McKinsey năm 2022 cho thấy, khoảng 63% người tiêu dùng cân nhắc yếu tố phát triển bền vững của các thương hiệu khi ra quyết định mua hàng. Bên cạnh đó, các công ty có tác động ESG lớn (tiêu chuẩn liên quan đến phát triển bền vững và ảnh hưởng của doanh nghiệp đến cộng đồng) sẽ có cơ hội phát triển cao hơn.
PGS-TS Nguyễn Hồng Quân phát biểu tại hội thảo. Thực hiện: TAM NGUYÊN - THỤY QUYÊNMột số thương hiệu lớn trên thế giới đã và đang có lợi thế thương hiệu xanh mang lại. Chẳng hạn như Toyota đã có những giải pháp cụ thể đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng (tôn trọng môi trường, ngăn ngừa hiện tượng nóng lên toàn cầu và không gây ô nhiễm không khí); hay như Vinamilk cũng thế, thuộc nhóm phát triển bền vững, duy trì phát triển thương hiệu xanh, với dòng vốn ngoại ổn định. Cách tiếp cận của Vinamilk khá giống Nestle, vừa phát triển, bảo vệ môi trường…
Kinh tế tuần hoàn hỗ trợ thương hiệu xanh ra sao? Trách nhiệm của nhà sản xuất, hướng tới net zero, giúp cho hệ sinh thái trong doanh nghiệp phát triển bền vững. Đối với yếu tố truyền thông cũng rất quan trọng, thông qua kể lại những câu chuyện thương hiệu để tiếp cận người tiêu dùng…
Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp là xu hướng tất yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động trước những rào cản xanh đặt ra bởi các thị trường quốc tế. Các mô hình kinh tế tuần hoàn có thể cung cấp giải pháp trong việc huy động nguồn lực, thực hiện đa mục tiêu, đa nguồn lực.
Quang cảnh hội thảo “Thương hiệu - Nội lực mềm cho doanh nghiệp Việt”. Ảnh: HOÀNG HÙNGĐể doanh nghiệp Việt ngày càng “xanh” hơn, rất cần sự chung tay vào cuộc của các bộ ngành; cần sự tiếp tục xây dựng và cập nhật khung pháp luật và chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, cần phát triển các yếu tố cần thiết cho hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn; cần mô hình thí điểm, vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp đầu ngành; lồng ghép các giải pháp kinh tế tuần hoàn vào các chương trình mục tiêu quốc gia và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các bộ ngành, địa phương. Thêm nữa, cần có đề án cụ thể cho TPHCM, tuy nhiên áp dụng theo hướng mở, có lộ trình từng bước và thực chất…
Hàng Việt đang phát triển theo đúng xu thế trên thế giới
Ông Nguyễn Anh Đức, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, Tổng giám đốc Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TPHCM dẫn số liệu của Bộ Công Thương cho biết ngành bán lẻ Việt Nam hiện nay có quy mô thị trường bán 142 tỷ đô và dự báo có thể tăng 350 tỷ đô vào năm 2025.
Ông Nguyễn Anh Đức, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, Tổng GĐ Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TPHCM. Ảnh: HOÀNG HÙNGTheo ông Nguyễn Anh Đức, hiện nay, ở thị trường trong nước, hàng Việt đã có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cụ thể, hàng Việt đang được đầu tư phát triển về chiều sâu, lan toả và có sức hút đặc biệt với người tiêu dùng. Người tiêu dùng ngày càng được tiếp cận nhiều chủng loại hàng hóa trong nước có chất lượng cao, uy tín, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Trong nước, thương mại hiện đại và thương mại điện tử đã và đang tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho hàng Việt phát triển theo đúng xu thế trên thế giới. Những đầu tư về logistics, cơ sở hạ tầng giao thông cũng đóng góp quan trọng đối với năng lực cung ứng của hàng Việt, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đối với thị trường thế giới, hàng Việt cũng vượt khó và từng bước chinh phục thị trường thế giới bằng chất lượng và giá cả cạnh tranh.
Hàng Việt cũng đang dần theo hướng “xanh” rất mạnh mẽ. Hàng Việt cũng đã tận dụng được những cơ hội mới, như các hiệp định thương mại tự do.
Các đại biểu tham gia hội thảo tại Báo SGGP. Ảnh: HOÀNG HÙNGÔng Nguyễn Anh Đức nêu ra 4 đề xuất nhằm nâng cao năng lực cung ứng và vị thế hàng Việt tại thị trường trong nước và trên thế giới:
Một là, cần có quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng trồng tránh sự cạnh tranh giữa các địa phương, sản phẩm OCOP cũng cần được quy hoạch rõ ràng, phân bố hợp lý chứ không phải người người nhà nhà làm OCOP, chẳng hạn xoài có tới hơn 40 sản phẩm OCOP, không biết nơi nào là đặc trưng.
Quy hoạch lại sản phẩm nào cho thị trường. Qua khảo sát nhận thấy ở mỗi thị trường nước ngoài, hàng Việt chỉ đang chiếm dưới 2% hàng nhập khẩu vào nước họ. Muốn tăng lên 5-7% thì phải có quy hoạch để có sản phẩm mũi nhọn.
Hai là, định hướng đầu tư sản phẩm tiêu dùng mang thương hiệu quốc gia, thậm chí toàn cầu. Khi đặt câu hỏi cho người tiêu dùng khi nghĩ đến Việt Nam thì nghĩ đến sản phẩm gì thì người tiêu dùng không nghĩ ra được sản phẩm nào mang tính nổi trội đặc trưng của Việt Nam. Do đó, phải đầu tư dài hạn các sản phẩm mang tính thương hiệu quốc gia, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Ba là, phải có sự thúc đẩy phát triển đồng bộ các ngành cung ứng hậu cần, thương mại điện tử và số hóa, hiện đại hóa, tập trung vào sản xuất, lưu thông, phân phối hàng Việt. Thương mại điện tử (TMĐT) của Việt Nam hiện nay rất manh mún, dù tốc độ phát triển luôn hơn 20%, thuộc loại cao trong khu vực. Nhưng thực tế các đơn vị TMĐT ở Việt Nam không ăn nên làm ra do phát triển manh mún, đại trà. Cần phát triển TMĐT để nâng bước cho hàng Việt, cùng với logistics, hạ tầng, phát triển vùng nguyên liệu...
Bốn là, củng cố thị trường hiện hữu bằng các giải pháp như đã nói và phát triển thêm các thị trường mới. Theo bản đồ xuất khẩu Việt Nam thì đang trống hai thị trường tiềm năng quan trọng là Trung Đông và châu Phi – thị trường có nhiều đặc điểm tiêu dùng tương đồng với Việt Nam nhưng đang bị bỏ ngỏ. Muốn chinh phục các thị trường này cũng cần có định hướng vĩ mô từ sản xuất.
Phó Tổng Biên tập Báo SGGP Phạm Văn Trường phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: HOÀNG HÙNGTừ thực tế này, có thể thấy việc xây dựng thương hiệu càng trở nên cấp thiết, giúp gia tăng nội lực nội sinh cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hướng tới phát triển vững mạnh, từng bước vươn xa hơn trên thị trường trong nước và thế giới. Báo SGGP tổ chức hội thảo lần này cũng nhằm đóng góp các giải pháp để phát triển thương hiệu cho hàng Việt trong bối cảnh thương mại xanh, hướng đến kiến tạo hệ sinh thái doanh nghiệp Việt có thương hiệu mạnh và bền vững.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Tổng Biên tập Báo SGGP Phạm Văn Trường nhấn mạnh, thương hiệu chính là nội lực mềm cho sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Việc xây dựng thương hiệu Việt không đơn thuần là dừng lại ở sản phẩm chất lượng tốt, mẫu mã sáng tạo mà còn góp phần khẳng định bản sắc, vị thế của doanh nghiệp Việt trên phạm vi toàn cầu. Cao hơn, sự phát triển thương hiệu của từng doanh nghiệp sẽ là mảnh ghép trong hệ sinh thái thương hiệu quốc gia, góp phần đưa thương hiệu quốc gia vươn tầm quốc tế.
Phó Tổng Biên tập Báo SGGP Phạm Văn Trường tặng hoa cho đơn vị đồng hành. Ảnh: HOÀNG HÙNGViệt Nam đã vươn lên tốp 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu trên thế giới. Với sự phát triển nội tại của từng doanh nghiệp, cùng với lợi thế từ nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong nhiều năm, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia có thương mại hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng tích cực trên thì vẫn còn một thực tế rất buồn đang diễn ra từ nhiều năm nay. Đó là hầu hết sản phẩm Việt, đặc biệt là nông sản đang phải “vay thương hiệu” để xuất khẩu. Thống kê từ Bộ Công thương chỉ rõ, có đến 70 - 80% là xuất thô, giá trị gia tăng thấp.
Phó Tổng Biên tập Báo SGGP Phạm Văn Trường phát biểu khai mạc hội thảo. Thực hiện: TAM NGUYÊN - THỤY QUYÊNMinh chứng rõ nét như ngành công nghiệp chế biến - chế tạo, có tới 95% giá trị xuất khẩu thuộc các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thương hiệu toàn cầu riêng. Hay như nhóm hàng hóa nông sản, là mặt hàng xuất khẩu chủ lực cung ứng cho cả thị trường trong và ngoài nước, nhưng có tới 80% sản phẩm chưa có thương hiệu... Hiện đã có rất nhiều quốc gia nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam ở dạng thô, hoặc đầu tư nhà máy chế biến nông sản tại Việt Nam, sau đó sơ chế, đấu trộn, đóng gói dưới thương hiệu của đơn vị sản xuất, rồi bán ra thị trường với giá cao gấp hàng chục lần…
Tính chung trong chuỗi giá trị thương mại toàn cầu, sản phẩm Việt tồn tại chủ yếu dưới hình thức gia công, giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ xuất khẩu qua trung gian là chính, rất ít sản phẩm có thể xuất khẩu bằng thương hiệu của mình. Điều này xuất phát từ nguyên do thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu và yếu. Đó là một thiệt thòi rất lớn cho hàng Việt, cho doanh nghiệp Việt nói chung trên thị trường, nhất là tại thị trường quốc tế.
Tin liên quan
Xây dựng thương hiệu cho hàng Việt: việc cần làm ngay - Bài 1: “Vay” thương hiệu để xuất khẩu
MAI HOA - THI HỒNG